THỜ KÍNH TỔ TIÊN

HLV – Để rộng đường nghiên cứu và tìm hiểu các tôn giáo và niềm tin của những người xung quanh chúng ta, nhất là trên quê hương Việt Nam. Chúng tôi xin đăng tải những bài viết đa chiều, mang tính khách quan và không bình luận, không tranh cãi, không công kích v.v…hầu cho ” linh hồn cha cũng như linh hồn con, linh hồn nào phạm tội thì linh hồn đó chết”…

*****************************

Cứ mỗi độ xuân về, câu đối từ xa xưa lại gợi nhớ: “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ – Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”. Có khi chẳng còn ai ăn thịt mỡ dưa hành, chẳng có bánh chưng xanh, cũng chẳng còn tràng pháo; thế nhưng ai cũng thấy lòng huyên náo, thấy cái rạo rực của xuân về.

Và rồi ai đó đã thành danh, hay đi xa học hành, công tác… mà chẳng tìm đủ mọi cách về sống với gia đình ít là trong ba ngày xuân mới. Là người Việt Nam, những dịp lễ tết, mà không sửa lại được nấm mồ cho tổ tiên, không sắp được mâm cơm đạm bạc rước ông bà tổ tiên về ăn tết, thì thật là những người con bất hiếu. Ngày 23 tháng Chạp, người ta tổ chức tiễn ông Táo về trời, và sau đó là mời tổ tiên về ăn tết. Trong văn hoá Việt Nam, chữ Hiếu luôn được đề cao và trân trọng. Một trong những nét đặc trưng thể hiện chữ Hiếu ấy chính là Đạo Ông Bà.

I. Thờ kính tổ tiên

Trong các gia đình Việt Nam thường có bàn thờ gia tiên, thường là ở phòng khách – nơi trang trọng nhất. Những gia đình khá giả thì có tủ thờ, nơi bài trí bàn thờ gia tiên, có câu đối, có lư hương ngày đêm đèn nhang nghi ngút khói, có cặp lộc bình với vài cành hoa tươi, có dĩa trái cây… đặt trước di ảnh hay bài vị của người đã khuất. Đối với họ, ông bà tổ tiên không chết, nhưng chỉ đi xa, khuất núi…; hay nói đúng hơn, ông bà hiện diện với con cháu một cách khác, thiêng liêng hơn, gần gũi hơn. “Đạo bất viễn nhân” là vậy. Bất cứ trong gia đình có chuyện gì dù to hay nhỏ, lúc con cháu thi cử, lúc công thành danh toại, lúc dựng vợ gả chồng, lúc sinh con đẻ cái, lúc bệnh tật ốm đau… tất cả đều được cẩn cáo với tổ tiên, được tổ tiên chứng giám và chúc phúc. Cuộc sống gia đình có hạnh phúc, bình an, làm ăn phát đạt… cũng chính là nhờ công đức và sự phù trợ của các ngài.

1. Đạo làm người

Việc thờ kính tổ tiên đã trở thành “đạo”, bởi đã bắt nguồn từ những gì rất sâu xa trong lòng con người. Từ khi mở mắt chào đời, chúng ta đã được ướp trong tiếng à ơi của mẹ; chập chững bước ngắn bước dài, bập bẹ gọi “ba”. Bầu trời tuổi thơ bát ngát tuyệt vời, đó là tình mẹ nghĩa cha. Nét bút nào kể hết được công cha, lời thơ nào toát được hết tấm lòng người mẹ! Kinh Thi có câu:

“Phụ hề sanh ngã

Mẫu hề cúc ngã

Ai ai phụ mẫu

Sanh ngã cù lao

Dục báo thâm ân

Hiệu thiên võng cực”.

Tạm dịch là:

“Cha thời sanh ta

Mẹ thời nuôi ta

Thương thương cha mẹ

Khó nhọc sanh ta

Muốn báo ân sâu

Trời cao không cùng”.

Đúng là:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Cảm nhận trên là cảm nhận chung của mọi người, nhưng cũng có thể nói đó là một cảm nhận rất Việt Nam; hơn ai hết, người Việt Nam sống trọn vẹn “đạo biết ơn” này. Dẫu cho bao nỗi thăng trầm của lịch sử, bao cuộc kết duyên giữa văn hoá và tín ngưỡng, “Đạo Ông Bà” vẫn là nguồn chảy, là tâm hồn của người Việt Nam. Đặc biệt khi nền văn hoá Khổng Mạnh đến Việt Nam, Đạo Ông Bà lại càng được củng cố, càng bám rễ sâu vào lòng con dân đất Việt. Chữ “Đạo” và chữ “Hiếu” đã giao thoa tạo nên nét độc đáo người dân ôn hoà trọng tình, giàu nghĩa.

Phong tục Việt Nam còn gắn liền với tín ngưỡng dân gian Việt Nam, chúng phát triển sóng đôi và hỗ trợ cho nhau.  Đặc biệt việc cúng tế gia tiên, thờ cha kính mẹ… từ lâu đã là nét tín ngưỡng độc đáo của người Việt. Ý thức được điều này, dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II, Giáo Hội làm một cuộc hội nhập, một cuộc trở về với các truyền thống văn hoá – tín ngưỡng.

2. Hội nhập văn hoá

Lần đầu tiên trong lịch sử đạo lý, Giáo Hội có một lối đánh giá thực sự tích cực về những tôn giáo lớn trên thế giới. Hơn nữa, những tư liệu về Giáo Hội (Lumen Gentium), về Truyền giáo (Ad Gentes), và về Giáo Hội trong thế giới hôm nay (Gaudium et Spes), công bố ý định cứu độ của Thiên Chúa, ý định này chỉ bị hạn chế bởi quyết định tà ý của lương tâm con người mà thôi. Điều này bao gồm khả thể về một đức tin – khả thị cứu độ (salvitic reveletion – fait) đúng nghĩa vượt ra ngoài những lời mạc khải Kitô giáo.[1]

Giáo Hội nhắc nhở: “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc và phục vụ hạnh phúc đồng bào”.[2] Thì ra giữa lòng dân tộc, Tin Mừng vẫn có thể trổ hoa, kết trái; không phải là “có thể” nữa, nhưng là “phải” sinh hoa kết trái, phải sống động ngay giữa lòng dân tộc.

Với tinh thần cởi mở và đối thoại, Hội Thánh nhìn nhận và tôn trọng mọi giá trị tích cực tiềm tàng trong các nền văn hoá và các tôn giáo khác.[3] Nền tảng để Giáo Hội trân trọng sâu sắc các tôn giáo mà thần học gia Rahner cho rằng rất quan trọng về mặt đạo lý, được các nghị phụ Công đồng Vatican II tóm tắt như sau:

Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy có nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo Hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của Chân lý, Chân lý chiếu soi cho hết mọi người. Tuy nhiên, Giáo Hội rao giảng và có bổn phận phải kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Đấng “là Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6), nơi Người, con người tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn; và nhờ Người, Thiên Chúa giao hoà mọi sự với mình.

Vì thế, Giáo Hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì và cổ động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lý và những giá trị xã hội, văn hoá của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối thoại và hợp tác cách trân trọng và bác ái với tín đồ các tôn giáo ấy mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống Kitô giáo”.[4]

Những chỉ dẫn trên nói chung về việc trân trọng giá trị các nền văn hoá và tôn giáo, nhưng cũng có thể áp dụng cụ thể cho việc thờ cúng tổ tiên mà chúng đang bàn tới. Một trong những mối quan tâm hàng đầu của Giáo Hội ngày nay là vấn đề hội nhập văn hoá. Làm sao để Tin Mừng của Đức Kitô không dập tắt đi những di sản văn hoá, tôn giáo của các dân tộc; nhưng trái lại, Tin Mừng phải là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hoá và tôn giáo, phải là ánh sáng các dân tộc (Lumen Gentium), là ánh sáng trần gian (x. Ga 8,12).

Tin Mừng và văn hoá tuy khác biệt nhưng không hề mâu thuẫn và cũng không tách rời nhau. Cá không thể thiếu nước, cũng vậy không thể tách rời Tin Mừng ra khỏi văn hoá được. Tin Mừng và văn hoá phải giao thoa và hoà điệu với nhau. Đức Giêsu đã được sinh ra, nuôi dưỡng và lớn lên trong một nền văn hoá cụ thể. Ngài cũng có một quê hương, một nơi “chôn nhau cắt rốn” như tất cả mọi người. Ngài nói, suy nghĩ, ứng xử theo văn hoá Do Thái; và cũng có thể nói chính nền văn hoá ấy đã hình thành nên một con người Giêsu, một phong cách Giêsu.

Qua dòng thời gian, Giáo Hội đã không tránh khỏi cơn  cám dỗ tách yếu tố văn hoá ra khỏi Tin Mừng, hay là loan báo Tin Mừng mang tính cách rập khuôn theo một nền văn hoá Tây phương nhất định. Bài học quá khứ cho chúng ta nhận ra rõ ràng hơn rằng văn hoá là địa hạt sống còn qua đó con người gặp gỡ được Tin Mừng. Văn hoá không phải là Tin Mừng, nhưng không thể đem Tin Mừng đến với con người mà không thông qua nền văn hoá của họ. Đức Phaolô VI nói: “Việc tách biệt Tin Mừng ra khỏi văn hoá là thảm trạng của thời đại chúng ta, gây ảnh hưởng sâu xa trên cả việc rao giảng Tin mừng lẫn nền văn hoá”.[5] Việc rao giảng Tin Mừng luôn bao hàm hai yếu tố cho và nhận. Trước khi loan báo nước hằng sống cho người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã xin chị nước uống tự nhiên!

Trong vũ điệu của văn hoá và Tin Mừng, chúng ta phải trân trọng từng nốt nhạc, từng cử điệu là những giá trị tinh tuý của nền văn hoá, là truyền thống các tôn giáo; từ đó mới có thể khởi đầu một cuộc đối thoại, cùng nhau nỗ lực tìm về chân thiện mỹ, tìm ra đâu là chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, trước viễn cảnh một thế giới đa phức tôn giáo, đặc biệt là với Á châu, nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đang hy vọng một “mùa gặt đức tin bội thu”,[6] thì việc loan báo Tin Mừng gặp không ít khó khăn, những nỗ lực hội nhập văn hoá mới chỉ là các bước chập chững khởi đầu. Lời mời gọi của Thầy Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15) vẫn là một mệnh lệnh khẩn thiết. Chúng ta phải rao giảng Tin Mừng như thế nào, đó vẫn là thách đố cho Giáo Hội, cho mỗi người chúng ta hôm nay. Thiết nghĩ, một cuộc trở về với bản sắc dân tộc có thể gợi mở một hướng đi cho công cuộc truyền giáo hôm nay.

II. Lễ gia tiên theo văn hoá Việt Nam

Trước hết xin được phân biệt sự khác nhau giữa lễ gia tiên và lễ gia thần. Gia tiên là danh từ chung chỉ cha mẹ, chú bác, ông bà, cụ kỵ, tổ tiên đã khuất. Dù vắng bóng, nhưng các ngài vẫn hiện diện gần gũi bên con cháu, chia sẻ niềm vui nỗi buồn. Con cháu có nhiệm vụ phải tôn kính, thờ phụng các ngài cho tròn đạo hiếu, đạo làm con. Còn gia thần thì khác, có nhà thờ thần này, có nhà thờ thần kia.

Theo Lễ Ký, gồm có ngũ tự gia thần: thần Cổng, thần Cửa, thần Bếp, thần Giếng và thần Trung Lưu (tức thần giữa sân). Một tài liệu khác coi ngũ tự gia thần là: Táo Quân (thần Bếp), Thổ Công (thần Đất), Tiên Sư (thần cai quản về nghề nghiệp làm ăn), Môn Gia Hộ Uý (thần giữ cổng), và Nhân Súc Y thần (thần bảo vệ sức khoẻ người và súc vật).[7] Ở đây chúng tôi chỉ xin trình bày đôi nét về lễ gia tiên mà thôi.

1. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ kính tổ tiên

Thờ kính tổ tiên là một tín ngưỡng truyền thống của người Việt; đây cũng là một phong tục cổ truyền mang nặng sắc thái tình cảm và trực quan hơn là lý trí và suy luận. Có thể nói, trên mảnh đất Việt Nam giàu tính tình cảm và tâm linh này, tín ngưỡng truyền thống thờ kính tổ tiên phát triển mạnh mẽ. Chúng ta tìm hiểu những yếu tố căn bản hình thành nên “truyền thống tâm linh” đó.

a. Những yếu tố cơ bản cấu thành

Văn hoá – tín ngưỡng này được hình thành nên từ một yếu tố hết sức nhân bản: uống nước nhớ nguồn. Dân Việt Nam rất trọng lễ, mà trọng lễ thì ân nghĩa giữ phần quan trọng. Tổ tiên sinh ra ông bà, ông bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra mình. Người con hiếu thảo phải biết công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Hiếu với cha mẹ không phải chỉ khi các ngài còn sống, mà ngay cả khi các ngài đã khuất. Đức Khổng Tử dạy rằng: “Cư tất chí kỳ kỉnh, dưỡng tất chí kỳ lạc, bệnh tất chí kỳ ưu, tang tất chí kỳ ai, tế tất chí kỳ nghiêm”. Nghĩa là: khi cha mẹ còn sống thì phải kính mến, nuôi dưỡng các ngài thì lòng phải vui, lúc các ngài lâm bệnh thì phải chạy chữa, lúc các ngài qua đời thì lòng phải hết sức đau buồn, và khi cúng tế các ngài thì phải hết sức nghiêm trang.

Khi các ngài qua đời, việc cúng giỗ là biểu hiện mối dây liên đới mật thiết giữa những người còn sống với những người đã khuất. Cúng giỗ chính là điểm gặp gỡ giữa thế giới vũ trụ hữu hình và thế giới linh thiêng. Người sống và người chết không xa cách nhau, nhưng liên hệ với nhau một cách vô hình qua những những cử chỉ cụ thể là việc cúng tế.

Cách thực hành trên đã nhanh chóng lan rộng và bám rễ sâu vào một cơ chế “làng huyết tộc”. Môi trường “làng” chính là cơ sở vật chất để tín ngưỡng này phát triển mạnh. Có thể nói từ thời Văn Lang Âu Lạc, nhiều bộ tộc đã hợp thành một “làng” và chung sống với nhau dưới sự lãnh đạo của một “thầy cúng” xưng là Hùng Vương. Người Việt vốn hiền hoà, tình cảm, lại chung sống cộng đồng với nhau, suốt đời quanh quẩn bên luỹ tre làng; cho nên dù sống, dù chết, họ vẫn gần gũi bên nhau, ấm áp tình người. Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước ngầm trong mát vẫn mãi nuôi sống và nối kết những tâm hồn Việt Nam giàu tình trọng nghĩa ấy.

Việc thờ kính tổ tiên được thể hiện qua nhiều biến cố của cuộc sống, nhưng đặc biệt qua hai biến cố quan trọng này là ma chay và cưới hỏi.

b. Việc tang chế và hôn nhân liên quan đặc biệt đến việc thờ kính tổ tiên

Việc tang chế đối với người Việt Nam mang một ý nghĩa rất quan trọng. Con người được quý trọng không phải chỉ khi còn sống mà ngay cả khi đã chết. Sau khi lo những nghi thức chôn táng, con cháu phải lập bàn thờ để thờ cúng ông bà hay cha mẹ. Trong ba năm đầu, con cháu phải đặc biệt cúng giỗ những ngày như: giỗ 49 ngày gọi là cúng Tứ Cửu hoặc cúng Thất Thất;[8] giỗ 100 ngày gọi là cúng bách nhật;[9] giỗ Tiểu Tường, tức là giỗ một năm sau ngày chết, giỗ đầu; giỗ Đại Tường, tức là giỗ hai năm sau ngày chết, gọi là giỗ hết khó; và sau ba năm thì làm lễ giỗ mãn tang. Sau khi giỗ mãn tang, không phải là con cháu hết phải lo việc cúng tế, nhưng luôn phải nhớ đến ông bà tổ tiên vào những ngày đầu tháng, ngày rằm, cuối tháng và đặc biệt là ngày mất của các ngài.

Còn về việc hôn nhân, đúng ngày cưới, người ta chọn giờ hoàng đạo mới đi đón dâu, thường là về chiều, có nơi đi vào chập tối. Trước khi đi đón dâu, chú rể phải làm lễ gia tiên trước bàn thờ nhà mình cùng với cha mẹ. Lễ gia tiên phải lạy 4 lạy rưỡi, tức 4 lạy và 1 xá, còn đối với cha mẹ thì lạy 2 lạy rưỡi. Việc lễ gia tiên mang ý nghĩa: trình bày việc hôn nhân với ông bà tổ tiên, xin ông bà chứng giám, và phù hộ cho các cháu; còn việc lễ cha mẹ là đền ơn sinh thành, dưỡng dục và dựng vợ cho mình.

Bên họ nhà gái, khi đám rước dâu tới ngõ, họ nhà gái mời nhà trai vào nhà, cho đặt đồ lễ lên giường thờ.[10] Nhà gái kiểm lại đồ thách cưới, đồ lễ đủ, nhà gái cho thắp hương để chú rể và cô dâu cùng lễ gia tiên. Không phải ai cũng thắp hương được, phải là bố, anh trai hoặc em trai cô dâu thắp. Nếu anh trai hay em trai thắp hương, nhà trai phải tặng thêm một món tiền nữa, gọi là tiền thắp hương. Chú rể vào lễ bàn thờ gia tiên nhà vợ 4 lễ rưỡi, sau đó cô dâu lễ theo. Thường thì hai người không bái cùng một lúc, nhưng ngày nay có sự thay đổi, cô dâu chú rể cùng bái một lượt. Chú rể thì “bái gối” còn cô dâu thì “ngồi vẹt”. Hai người chờ nhau lễ bái cho nhịp nhàng.

Những việc làm trên làm nổi bật chữ “Lễ” trong văn hoá-tín ngưỡng của người Việt. Hai chữ “hiếu – hỷ” tuy thể hiện hai trạng thái buồn vui khác nhau, nhưng cả hai nói lên sự liên đới mật thiết giữa các bậc tổ tiên và con cháu trong mọi chuyện vui buồn của cuộc sống.

2. Những nét đặc trưng của buổi lễ gia tiên

a. Tinh thần và lễ vật cúng gia tiên

Đây là một buổi lễ mang tính thuần tuý văn hoá và tín ngưỡng dân tộc. Như ta đã biết, việc hiếu kính đối với chư đấng tiên linh là việc phải hết sức trân trọng. Đức Khổng Phu Tử dạy rằng “tế tắc chí kỳ nghiêm” là vậy. Do đó, tuy buổi lễ mang tính gia đình và đơn sơ thân thiện nhưng không kém phần trang nghiêm kính cẩn.

Lễ vật cúng gia tiên không cần mâm cao cỗ đầy, nhưng thường thì gồm những thứ như: hương đăng (đèn nến), trầm trà (không có thì không thành lễ cúng), trầu cau, rượu, hoa quả, cỗ ngọt (như xôi chè, oản chuối…), cỗ mặn, nước lạnh, và có khi thêm vàng mã. Tuỳ theo từng lễ cúng mà sử dụng hoặc một, hoặc hai ba hay tất cả những lễ vật trên. Như vậy, nhiều khi lễ vật chỉ là chén cơm trắng và vài chén rượu lạt, tổ tiên cũng vui lòng chứng giám; điều quan trọng là tấm lòng thành của con cháu đối với các ngài mà thôi. Tấm lòng thành đó thể hiện qua những lễ vật thanh khiết và được dành riêng; cỗ bàn nấu xong, cúng gia tiên trước, con cháu mới được ăn sau. Có những trường hợp, người gia trưởng chưa kịp làm lễ cúng vì nhiều món ăn chưa sửa soạn xong, thì những món ăn đã nấu xong rồi phải múc để dành riêng cho việc cúng tế.

2.2. Nghi thức cáo gia tiên

Có những buổi lễ diễn ra đơn giản ngắn gọn, cũng có những buổi long trọng, chi tiết nhiều hơn. Nhưng thường thì việc cúng bái tổ tiên phải do gia trưởng. Gia trưởng làm chủ mọi lễ nghi trong gia đình. Sau khi đồ lễ đã được đặt trên bàn thờ, gia trưởng khăn áo chỉnh tề, thắp hương cắm lên bình hương, rồi đứng trước bàn thờ khấn. Trước khi khấn gia trưởng vái 3 vái, và khi khấn xong gia trưởng lễ 4 lễ thêm 3 vái, ta gọi là 4 lễ rưỡi. Bàn thờ lúc đó phải có thắp đèn hoặc nến.

Cũng có nhà có đỉnh trầm, thì đỉnh trầm được đốt trước, khi cúng gia trưởng chỉ việc khấn vái thôi. Còn nếu thắp hương trên bàn thờ, thì bao giờ cũng phải thắp theo số lẽ, vì số lẻ thuộc âm.

Sau khi gia trưởng khấn lễ xong, các người khác trong gia đình, ngoại trừ các trẻ nhỏ cùng lần lượt tới lễ trược bàn thờ 4 lễ rưỡi. Thường thì chỉ cần vợ gia chủ và một vài người nữa lễ là đủ, trừ phi đó là lễ giỗ thì mới cần đầy đủ mọi người.

Ngày này, nơi các đô thị, người ta lấy vái thay lễ. Trước khi khấn, người ta vái 3 vái ngắn, khấn xong vái thêm 4 vái dài và 3 vái ngắn nữa tay cho 4 lễ rưỡi.[11]

Chúng ta bàn thêm việc lễ tạ nữa. Sau khi mọi người đã lễ vái xong, chờ cho tàn một tuần hương, gia trưởng đến trước bàn thờ lễ tạ. Gia trưởng sẽ thắp thêm mấy nén hương nữa, lấy vàng mã trên bàn thờ đem hoá, tức là đốt đi. Lúc hoá vàng, người ta thường rưới chén rượu cúng vào đấy.[12] Lúc này con cháu có thể hưởng lộc của ông bà, mọi người chia sẻ cho nhau những thức ăn đã được cúng tế.

Còn về bản văn cúng tế, thì tuỳ theo hoàn cảnh và những dịp lễ mà thảo ra những bài văn tế khác nhau. Văn tế thường viết bằng chữ Hán, hoặc là chữ Việt âm Hán; tuy nhiên cũng có thể viết bằng chữ Quốc Ngữ, miễn rằng trong bài văn khấn phải nói rõ ngày tháng, lý do, liệt kê lễ vật, và những điều xin nếu có.

Xin được trích dẫn bài văn tế điển hình[13]:

Tuế thứ Kỷ Mão niên, Xuân thiên, chánh nguyệt, Nguyên Đán. Tự tôn Hồng Bàng Học Sĩ, nguyên quán Việt Nam quốc, Nam kỳ xứ, Gia Định tỉnh. Hiện thường trú tại Sài Côn thị, Phú Nhuận quận, Đa Minh Học viện.

Nhân phùng Xuân nguyên chí tiết, cảnh vật giai hoan, vị thử thiết lập tự đường, cung trí lễ nghi tại bản gia, cung thỉnh chư tiên tổ.

Cao, tằng, tổ khảo; cao, tằng, tổ tỷ, bá, thúc, huynh, đệ, cô, dì, tỷ muội đẳng, chư hương hồn đồng lai lâm từ đường chứng giám.

Chấp kỳ bạc lễ, hiến mãn tam tuần.

Cầu thỉnh bảo hộ chư tôn, gia đình tứ thời cát khánh, bát tiết an khang, phúc lai tai khứ.

Vạn vọng. Cẩn cáo[14]
Dịch nghĩa:

Hôm nay là ngày Nguyên Đán, tháng giêng, mùa xuân năm Kỷ Mão. Cháu (trưởng nối dòng) là Hồng Bàng Học Sỹ (họ Hồng Bàng, tên là Học Sĩ). Nguyên quán ở tỉnh Gia Định, xứ Nam kỳ, nước Việt Nam. Hiện thường trú tại Học viện Đa Minh, thuộc quận Phú Nhuận, thành phố Sài Gòn.

Nay nhân dịp tiết đầu xuân năm mới, cảnh vật đều tươi vui, vì thế xin trần thiết tự đường, trưng bày nghi lễ, cung kính thỉnh cầu chư tổ tiên liệt vị:

Cao, tằng, tổ khảo; cao, tằng, tổ tỷ, bá, thúc, huynh, đệ, cô, dì, tỷ, muội. Tất cả chư hương hồn cùng đến nhà thờ tổ tiên chứng giám cho.

Xin vui hưởng ba tuần rượu, chấp nhận lễ mọn đạm bạc này. Cầu mong chư tiên linh bảo hộ cho gia đình chúng cháu, bốn mùa vui đẹp, tám tiết bình an, tai qua phước đến.

Muôn trông. Cẩn cáo.

2.3. Đôi nét bài trí án thờ

Án thờ gia tiên phải phải được sắp đặt ở một nơi trang trọng nhất trong nhà. Thường có hai cái bàn, bàn ở phía ngoài cao hơn, trên đó đặt lư hương, và hai bên là hai giá đặt đèn[15]. Lư hương thường có bầu hình tròn tượng trưng cho bầu thái cực.[16] Những nén hương thắp lên mùi trầm nghi ngút, tàn hương nhấp nháy tượng trưng cho những tinh tú trên trời. Hai cây đèn hai bên tượng trưng cho hai vầng sáng lớn, nhật nguyệt quang minh. Trên án thờ còn có bình bông tượng trưng cho những tinh anh của trời đất. Sau lư hương đặt một bình phong nhỏ, ý mốn che đậy những điều sai quấy của con cháu để linh hồn những người quá cố được an bình. Còn cái bàn nhỏ thấp hơn, đặt ở phía trong gọi là giường thờ, phía dưới trải bốn chiếc chiếu để các vị tế lễ phủ phục lễ bái.

Việc bài trí bàn thờ có thể treo thêm câu đối hai bên, bức hoành phi và bài vị.[17] Những bài trí này không phải theo ngẫu hứng nhưng đều phải mang nét cân đối âm dương, phù hợp với tinh thần văn hoá của người Việt Nam.
Kết luận

Chúng ta đang bàn về tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên với ý hướng trở về nguồn tìm lại bản sắc dân tộc và hội nhập Tin Mừng vào đó. Những bài học lịch sử còn ghi lại tâm thức của lương dân khi họ được nghe rao giảng Tin Mừng, đó là một tâm thức nghi kỵ, phản kháng vì Kitô giáo không cho họ thờ kính chính tổ tiên của mình. Ngày nay, những cảm thức như vậy có lẽ không còn nữa, lương – giáo tôn trọng và hiểu nhau hơn. Giáo Hội nỗ lực đem Tin Mừng hội nhập vào các nền văn hoá, trân trọng và đón nhận tất cả những cái hay, nét đẹp của các truyền thống văn hoá – tín ngưỡng. Tuy nhiên, chúng ta không quá ngây thơ chuyển từ cực này sang cực khác, không phải bất cứ nét văn hoá nào cũng có thể đưa vào Kitô giáo, cần phải sáng suốt, nhạy bén và chọn lọc. Đây là một điều nan giải cho tiến trình hội nhập văn hoá của Giáo Hội; làm sao một mặt vẫn giữ được căn tính của mình, bảo vệ những nét tinh ròng của đạo lý; mặt khác luôn cởi mở, đối thoại, và đón nhận những tinh hoa từ các nền văn hoá và tín ngưỡng khác.

“Đạo Ông Bà” thiết tưởng chính là cốt lõi tinh tuý của tâm hồn người Việt Nam. Chúa có dạy điều gì khác đâu, đó cũng là yêu cha kính mẹ. Phụng vụ Giáo Hội cũng dành ngày Mồng Hai tết để cầu cho tổ tiên, và đặc biệt dành nguyên tháng 11 để cầu nguyện, tưởng nhớ đến các linh hồn. Hơn nữa, hằng ngày trong mọi thánh lễ, Giáo Hội đều có lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên. Sự trùng phùng hội ngộ giữa Kitô giáo và Đạo Ông Bà của người Việt Nam là điều khả thi lắm. Từ một thái độ cung kính, một tấm lòng thành khi cúng tế gia tiên, đến một tinh thần cầu nguyện sâu xa cho tiên tổ của mình trong những giờ kinh, trong thánh lễ Misa, đó chẳng phải là điều đáng mong lắm sao?

—————————

[1] x. Thời sự Thần Học, số 23, tháng 3/2001,tr. 63-64. Rahner 1980, tr. 327.

[2] Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam, năm 1980.

[3] Xc. Vat. II, Hiến chế Hội Thánh, số 16; và Sắc lệnhTruyền giáo, số 9.

[4] Nostra Aetate, số 2.

[5] x. Ecclesia in Asia, số 21.

[6] Ecclesia in Asia, số 1.

[7] x. Tân Việt, Phong tục cổ truyền Việt Nam, tập văn cúng gia tiên, NXB Văn hoá Dân tộc, 1994. tr. 12.

[8] Việc cúng 49 ngày có ý nghĩa: người ta quan niệm con người gồm hai phần: xác và hồn. Phần hồn có 3 hồn và 7 vía đối với đàn ông, đàn bà thì 3 hồn 9 vía. Khi chết, phần xác phân huỷ, còn phần hồn thì mỗi tuần bay đi một vía và 7 tuần (49 ngày) thì bay hết 7 vía. Linh hồn còn lại thì bất tử. Còn đối với đàn bà, dù là 9 vía, nhưng vẫn cúng giỗ 49 ngày, điều này chưa thấy sách nào giải thích rõ ràng cả (x. Nguyễn Nghĩa Nguyên, tr. 30-31).

[9] Vì người ta quan niệm rằng, được 100 ngày, vong hồn người chết đã quen với sinh hoạt ở âm giới, không phải về nhà ăn cơm nữa (x. Sđd).

[10] “Giường thờ” là một cái bàn nhỏ đặt ở phía sau bàn thờ gia tiên, nơi để trưng bày lễ vật cúng gia tiên.

[11] x. Toan Ánh, Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam, tr. 9-10.

[12] Việc làm này được các cụ giải thích là có như vậy người khuất mới được hưởng số tiền vàng người sống gởi tới, vàng mã mới có thể biến thành tiền thật của cõi âm được (Sđd tr. 11).

[13] Đây là bài văn tế do thầy Nguyễn Gia Tường, giáo sư Hán Văn làm, Anh em Học viện Đa Minh đã tế lễ gia tiên vào dịp mừng xuân Kỷ Mão, 23 tháng Chạp năm Mậu Dần, tại Trung tâm Sinh hoạt Đa Minh, 190 Lê Văn Sĩ, Phú Nhuận, TP. HCM.

[14] Bài văn tế viết trên giấy màu vàng, đọc xong rồi đốt. Khi đốt sớ, mọi người cùng chú mục vào ánh lửa linh thiêng ấy. Nhớ phải đốt sao cho cháy hết tờ sớ, dừng sót lại chút nào, nếu sót lại tức là dâng cho tổ tiên sớ rách, như thế là thiếu lòng tôn kính đối với chư vị.

[15] Chúng ta còn thấy những tên gọi khác như: bộ tam sự: gồm đỉnh hương, hộp lạp hương đựng trầm, và một bộ đồ xúc và khêu trầm; ngũ sự: thêm hai cọc cắm nến hoặc để dĩa đèn dầu; thất sự: thêm hai lọ lộc bình hoặc đôi hạc.

[16] Người ta quan niệm rằng “thiên viên địa phương”- trời tròn đất vuông. Bầu thái cực chính là “trời tròn” ấy.

[17] Người Công giáo không đặt bài vị trên bàn thờ gia tiên, mà thay vào đó là bức ảnh của người quá cố. Đây cũng là một nét sáng tạo trong việc hội nhập văn hoá.
[Số lần đọc 153]

Quốc Văn, OP

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *